I. Đại cương
– Nang ống niệu rốn (Urachal cyst) phát triển nếu ống niệu rốn đóng ở đầu bàng quang và rốn nhưng không khép kín ở đoạn giữa hai đầu tận này. Nó chủ yếu xảy ra ở 1/3 dưới của ống niệu rốn và ít khi ở 1/3 trên.
– Nang ống niệu rốn thường nhỏ, nhưng kích thước có thể rất biến đổi.
– Ưu thế nữ gấp 10 lần nam giới.
– Thường không có triệu chứng, phát hiện tình cờ.
– Chẩn đoán thường khi chúng có triệu chứng ở tuổi trưởng thành hoặc trẻ em do các biến chứng nhiễm trùng hoặc chảy máu.
II. Phân loại
– Xoang niệu rốn (umbilical urachal sinus – 15%): ống niệu rốn giãn và tịt ở rốn. Một lỗ nhỏ mở vào rốn thường xuất hiện và có thể gây chảy dịch theo chu kỳ.
– Nang niệu rốn (urachal cyst – 30%): tồn tại và giãn to phần ống niệu rốn nằm giữa bàng quang và rốn.
– Ống niệu rốn mở (patent urachus – 50%): tồn tại hoàn toàn ống niệu rốn, có sự thông thương giữa bàng quang và rốn.
– Túi thừa ống niệu rốn (vesicourachal diverticulum – 5%): tồn tại một phần ống niệu rốn ở phía bàng quang giống như một túi thừa ở phần đáy bàng quang, thông với rốn. Tình trạng này là kết quả của đầu bàng quang của ống niệu rốn không đóng.
III. Giải phẫu
– Ống niệu rốn hay dây chằng rốn giữa là một cấu trúc ống nằm ở đường giữa kéo dài lên phía trên từ vòm trước của bàng quang tới rốn. Là dấu vết tồn lưu của hai cấu trúc phôi: ổ nhớp và niệu nang. Trong quá trình phát triển bình thường của thai, ống niệu rốn bị thoái triển, lòng ống bị xơ hoá trở thành dây chằng rốn giữa. Sự tồn lưu của ống niệu rốn làm phát sinh nhiều vấn đề trên lâm sàng cả ở trẻ nhỏ lẫn người trưởng thành: rò rỉ nước tiếu tiểu dai dẳng, viêm, nhiễm trùng và ung thư. Tỉ lệ ~ 1/ 5000 ở người trưởng thành và ~ 1/ 150 000 ở trẻ nhỏ.
– Ống niệu rốn (urachus) có chiều dài từ 3-10 cm và đường kính 8-10 mm. Nó là một cấu trúc ống có 3 lớp, lớp trong cùng lót bởi biểu mô chuyển tiếp ở trong 70% các trường hợp và biểu mô trụ trong 30% các trường hợp. Cấu trúc được bao quanh bởi mô liên kết và một lớp cơ ở ngoài liên tiếp với cơ mu bàng quang.
– Dọc theo đường đi của nó từ bàng quang đến rốn, ống niệu rốn nằm giữa mạc ngang và phúc mạc thành được chứa trong khoang sau xương mu, trước bàng quang, trước phúc mạc và được phân thành ngăn bởi mạc rốn -bàng quang, cùng dây chằng rốn giữa và bàng quang.
– Đôi khi, ống niệu rốn có thể hoà vào 1 hoặc cả hai động mạch rốn bị tắc và có thể hơi lệch nhẹ sang bên trái hoặc bên phải đường giữa.
IV. Nang niệu rốn
1. Chẩn đoán siêu âm
– Hình ảnh cấu trúc nang dịch đồng nhất dọc theo đường giữa, vị trí dây chằng rốn – bàng quang, thường tiếp giáp vùng vòm bàng quang.
=> Case lâm sàng 1:
=> Case lâm sàng 2:
– Có thể kèm theo sỏi
2. Chẩn đoán CT / MRI
– Hình ảnh cấu trúc nang dịch đồng nhất dọc theo đường giữa, vị trí dây chằng rốn – bàng quang, thường tiếp giáp vùng vòm bàng quang, không thông với bàng quang.
=> Case lâm sàng 1:
=> Case lâm sàng 2:
=> Case lâm sàng 3:
* Biến chứng:
– Nhiễm trùng: thành nang dày, thâm nhiễm mỡ xung quanh.
– Ung thư hóa: thành dày không đều, ngấm thuốc sau tiêm.
=> Case lâm sàng 1:
=> Case lâm sàng 2:
4. Chẩn đoán phân biệt
* Túi thừa bàng quang: vị trí túi thừa không tương xứng vị trí của ống niệu rốn.
* Nang mạc treo / Nang buồng trứng:
V. Túi thừa niệu rốn
– Túi thừa ống niệu rốn (Vesicourachal diverticulum) là kết quả phía bàng quang của ống niệu rốn không đóng.
– Tồn tại một phần ống niệu rốn ở phía bàng quang giống như một túi thừa ở phần đáy bàng quang, túi thừa không thông với rốn hoặc phần còn lại của ống niệu rốn.
– Có thể thấy sỏi trong túi thừa.
=> Case lâm sàng:
=> Case lâm sàng 1:
=> Case lâm sàng 2:
=> Case lâm sàng 3:
=> Case lâm sàng 4: nhiễm trùng
VI. Ống niệu rốn mở
– Ống niệu rốn mở (Patent urachus) do tồn tại hoàn toàn ống niệu rốn, có sự thông thương giữa bàng quang và rốn.
– Bệnh thường được chẩn đoán ở trẻ sơ sinh khi có rò rỉ nước tiểu từ rốn hoặc phát hiện muộn do ống niệu rốn rất hẹp, khi có áp lực cao trong bàng quang (ví dụ như tắc nghẽn đường ra bàng quang ) buộc nước tiểu phải đi qua ống niệu rốn.
– Lâm sàng : Rò rỉ nước tiểu ra từ rốn kèm bất thường tại rốn: phù nề, u hạt, chậm liền vết thương tại rốn.
– Chẩn đoán hình ảnh:
+ Cấu trúc ống vị trí đường giữa, kết nối bàng quang và rốn.
+ Trào ngược nước tiểu từ bàng quang vào ống niệu rốn, đánh giá rõ nhất trên phim chụp nghiêng.
+ Ống niệu rốn mở có xu hướng nhiễm trùng => dày thành.
=> Case lâm sàng 1:
=> Case lâm sàng 2:
VI. Xoang niệu rốn
– Xoang niệu rốn (Umbilical urachal sinus) xảy ra khi đầu tận phía rốn của ống niệu rốn đóng không hết và tồn tại một cấu trúc hình thoi phồng ra ngay phía dưới rốn. Khoang trống chứa các mảnh vụn tế bào tích tụ lại có thể gây biến chứng : nhiễm trùng, tạo sỏi…
– Một lỗ nhỏ mở vào rốn thường xuất hiện và có thể gây chảy dịch theo chu kỳ.
– Bệnh thường gặp ở trẻ em, hiếm gặp ở người trưởng thành.
– Đặc điểm hình ảnh: cấu trúc hình thoi giãn nở gần phía rốn, thành dày nằm dọc đường giữa nhưng không thông với bàng quang.
=> Case lâm sàng 1:
=> Case lâm sàng 2:
Tài liệu tham khảo
* Urachal Remnant Diseases: Spectrum of CT and US Findings – Jeong-Sik Yu, MD, Ki Whang Kim, MD, Hwa-Jin Lee, MD
* Cystic Abdominal Masses in Children – Erik Beek
* Ultrasonographic investigation of anterior abdominal wall pathology in children – V. Rafailidis, D. Rafailidis, A. Delianidou, I. Chryssogonidis; Thessaloniki/GR
* Urachal remnant pathologies: A pictoral essay – X. A. Santos Salas, A. Blazquez, E. Barcina, C. Ramirez, G. Liaño, J. M. Lopez-Arcas Callejas, D. Salazar; Madrid/ES
* Imaging aspects of urachal remnant pathology – S. Palma, J. Inácio, J. Leitão, L. Lobo, M. Abecasis, I. Távora; Lisbon/PT
* Clinical and radiological features of congenital and acquired urachal remnant diseases – V. S. Teran Pareja, A. Martínez Arnaiz, N. Guerrero Salcedo, E. Prado Miranda, E. Rico Aragón, E. Martínez Carapeto; Madrid/ES
* Urachus-Remnants and Rants – H. A. Mumtaz, A. Harris, A. Buckley; VANCOUVER, BC/CA
* Imaging of Urachal remnant diseases – S. Zafar, R. Shah, M. Dinneen, C. Davies; London/UK
* Urachal Remnant Diseases: Spectrum of CT and US Findings – Jeong-Sik Yu, Ki Whang Kim, Hwa-Jin Lee, Young-Jun Lee, Choon-Sik Yoon, Myung-Joon Kim
* Imaging of the Urachus: Anomalies, Complications, and Mimics – Carolina Parada Villavicencio, Sharon Z. Adam, Paul Nikolaidis, Vahid Yaghmai, Frank H. Miller
* Imaging of urachal anomalies – Suryakala Buddha, Christine O. Menias & Venkata S. Katabathina
* Imaging features of intravesical urachal cysts in children – Zeyad A Metwalli, R Paul Guillerman, Amy R Mehollin-Ray