I. Đại cương
– Loãng xương (Osteoporosis) là tình trạng giảm mật độ Canxi trong một đơn vị thể tích xương. Loãng xương là tình trạng bệnh lý phổ biến, có thể gây ra các hậu quả nặng nề cho cá nhân và xã hội.
– Tuổi: gặp nhiều nhất ở phụ nữ sau mãn kinh, ngoài ra có thể gặp ở người trẻ tuổi hoặc thứ phát sau bệnh lý thận, cận giáp, bất động…
– Khi loãng xương, các bè xương mất dần dẫn tới cấu trúc xương yếu.
II. Nguyên nhân
* Tuổi già
– Liên quan tới tuổi và tình trạng mất cân bằng tạo xương. Loại loãng xương này xuất hiện ở cả 2 giới nam và nữ, độ tuổi khoảng trên 70. Đặc điểm của loại loãng xương này là mất chất khoáng toàn thể cả ở xương xốp và xương đặc.
– Đặc điểm:
+ Tăng quá trình huỷ xương
+ Giảm quá trình tạo xương
+ Loãng xương tiên phát thường xuất hiện trễ, diễn biến chậm, tăng từ từ và ít có những biến chứng nặng nề như gẫy xương hay lún xẹp các đốt sống.
– Nguyên nhân :
+ Các tế bào sinh xương (Osteoblast) bị lão hoá.
+ Sự hấp thu calci ở ruột bị hạn chế.
+ Sự suy giảm tất yếu các hormon sinh dục (Nữ và Nam)
* Sau mãn kinh
– Làm nặng hơn tình trạng loãng xương do tuổi ở phụ nữ do giảm đột ngột oestrogen khi mãn kinh, ngoài ra còn có sự giảm tiết hormon tuyến cận giáp trạng, tăng thải calci niệu, suy giảm hoạt động của enzym 25-OH-vitamin D1-hydroxylase
– Đặc điểm:
+ Tăng quá trình huỷ xương
+ Quá trình tạo xương bình thường
+ Tăng nguy cơ gãy xương thân đốt sống và xương hông (xương đùi).
* Thứ phát
– Kém phát triển thể chất từ khi còn nhỏ, đặc biệt là còi xương, suy dinh dưỡng, chế độ ăn thiếu protein, thiếu canxi hoặc tỷ lệ canxi/phospho trong chế độ ăn không hợp lý, thiếu vitamin D hoặc cơ thể không hấp thu được vitamin D… vì vậy khối lượng khoáng chất đỉnh của xương ở tuổi trưởng thành thấp, đây được coi là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của bệnh Loãng xương.
– Tiền sử gia đình có cha, mẹ bị loãng xương hoặc gãy xương
– Ít hoạt động thể lực, ít hoạt động ngoài trời, bất động quá lâu ngày do bệnh tật hoặc do nghề nghiệp
– Có thói quen sử dụng nhiều rượu, bia, cà phê, thuốc lá…làm tăng thải canxi qua đường thận và giảm hấp thu canxi ở đường tiêu hóa.
– Bị mắc một số bệnh: Thiểu năng các tuyến sinh dục nam và nữ (suy buồng trứng sớm, mãn kinh sớm, cắt buồng trứng, thiểu năng tinh hoàn…), bệnh nội tiết : cường tuyến giáp, cường tuyến cận giáp, cường tuyến vỏ thượng thận bệnh mãn tính đường tiêu hoá làm hạn chế hấp thu canxi, vitamin D, protein…ảnh hưởng chuyển hoá canxi và sự tạo xương, bệnh suy thận mãn hoặc phải chạy thận nhân tạo lâu ngày gây mất canxi qua đường tiết niệu, các bệnh xương khớp mạn tính đặc biệt là viêm khớp dạng thấp và thoái hoá khớp
– Sử dụng dài hạn một số thuốc : Chống động kinh (Dihydan), thuốc chữa tiểu đường (Insulin), thuốc chống đông (Heparin) và đặc biệt là nhóm thuốc kháng viêm Corticosteroid.
III. Chẩn đoán x-quang
– Mật độ xương giảm: khi mật độ xương giảm quá nhiều, hình ảnh xương được ví như hình ảnh kính – vỏ xương mỏng và các thớ xương xốp không hiện hình. Xương sáng, trong hơn bình thường, ở mức độ nhẹ còn thấy các bè xương tạo nên hình vân dọc hoặc chéo.
– Vỏ xương mỏng: mặc dù có thể xảy ra trên bất cứ xương nào, người ta thường chứng minh một cách tin cậy ở giữa thân xương của đốt bàn tay thứ hai. Trong loãng xương, độ dày vỏ xương mỏng đi. Vỏ xương đốt bàn tay (và tất cả vỏ xương) giảm chiều dày theo tuổi và ở phụ nữ thì mỏng hơn nam giới cùng lứa tuổi.
– Thớ xương xốp thưa: mạng lưới xương xốp thưa, rõ. Ở mức độ nặng xương trong như thuỷ tinh, đốt sống trong có phần ranh giới ngoài đậm nét (dấu hiệu xương đóng khung).
* Loãng xương lan toả
– Hình xương nhạt do mất chất vôi.
– Vỏ xương mỏng, kèm theo đó là hình ảnh rộng ống tuỷ, chỉ số vỏ/thân xương giảm.
– Mạng lưới xương xốp thưa và rõ nét.
– Nguyên nhân:
+ Rối loạn chuyển hoá (bệnh còi xương, nhuyễn xương, cường cận giáp…), thiếu chất chuyển hoá (thiếu Canxi, Phospho…)
+ Bất động lâu ngày, loạn dưỡng trong hội chứng Sudeck…
* Loãng xương khu trú
– Biểu hiện bằng hình ổ loãng xương nằm giữa các cấu trúc xương bình thường. Vùng loãng xương có mật độ giảm so với cấu trúc xương lân cận, vỏ xương mỏng, các thớ xương thưa và mảnh.
– Vùng gianh giới giữa phần loãng xương và xương lành có thể rõ (trong các bệnh lý viêm), hoặc mờ (trong bệnh lý u xương, loạn dưỡng).
– Loãng xương khu trú thường là biểu hiện của bệnh lý tại chỗ: viêm, khối u, khớp bất động, loạn dưỡng do đau…
IV. Đánh giá mức độ
* Chỉ số Barnett & Nordin
+ Dựa vào hình ảnh vỏ xương của xương bàn tay số 2 bàn tay không thuận.
+ Đo đường kính của thân xương D và đường kính của phần tủy xương d.
+ Chỉ số = (D – d )/Dx100%
+ Nếu < 45% được coi là loãng xương.
* Chỉ số Singh
– Chụp đầu trên xương đùi ở tư thế thẳng.
– Bình thường thấy có 4 hệ thống dải xương.
– Trong loãng xương, các hệ thống dải xương này bị đứt gãy, mất đi ít hay nhiều tùy theo mức độ nặng nhẹ của loãng xương.
– Chia làm 7 mức độ: chỉ số 7 là bình thường, chỉ số 1 là nặng nhất.
– Nhược điểm: phụ thuộc yếu tố kỹ thuật, ảnh hưởng người béo, người gầy.
* Chỉ sổ Meunier
– Đánh giá loãng xương cột sống, chụp cột sống nghiêng từ D7 đến L4 (10 đốt sống), đánh giá hình dạng các đốt sống và tính điểm.
– Thang điểm của bệnh nhân sẽ nằm trong khoảng từ 10 (cả 10 đốt bình thường) đến 40 (cả 10 đốt bị xẹp hoàn toàn).
– Nhược điểm: chỉ đánh giá được khi có lún thân đốt sống.
+ Đốt sống bình thường: 1 điểm
+ Đốt sống lõm 2 mặt: 2 điểm
+ Đốt sống hình lưỡi (xẹp bờ trước hoặc bờ sau) hoặc xẹp hoàn toàn: 4 điểm
* Phương pháp DEXA
– Phương pháp DEXA (Double Energy Xray Absoorption) là phương pháp chính xác nhất chẩn đoán loãng xương.
– Đo mật độ xương ở xương chậu, cột sống, cẳng tay. Mật độ xương của bệnh nhân được so sánh với mật độ xương trung bình của người trưởng thành cùng giới tính và chủng tộc. Điểm số được gọi là Tscore.
– Bình thường: Tscore > -1
– Thiếu xương: -2.5 ≤ Tscore ≤ -1
– Loãng xương: Tscore < -2.5
Hình ảnh bệnh lý ↵
Tài liệu tham khảo
* Integrated Imaging Approach to Osteoporosis: State-of-the-Art Review and Update – Giuseppe Guglielmi, MD, Silvana Muscarella, MD, and Alberto Bazzocchi, MD
* Radiology of osteoporosis – Gopinathan Anil
* Radiology of Osteoporosis – Michael Jergas
* Osteoporosis Imaging: State of the Art and Advanced Imaging – Thomas M. Link
* Radiology of Osteoporosi – Thomas M. Link, MD, PhD
* Radiography in Osteoporosis – Sivasubramanian Srinivasan and Wilfred C. G. Peh