Logo BSThuan.Vn

Chấn Thương Cẳng Tay | Bài giảng CĐHA

I. Đại cương

– Gãy xương cẳng tay là một chấn thương phổ biến xảy ra ở cả trẻ em và người lớn. Sau khi bị gãy xương, nếu không xử trí, điều trị đúng phương pháp ngay từ đầu có thể sẽ dẫn tới các biến chứng đe dọa tính mạng, gây tàn phế suốt đời.

* Nguyên nhân và cơ chế:
– Cơ chế trực tiếp: ngã đập cẳng tay xuống nền cứng, cản đỡ lực tác động trực tiếp vào cẳng tay; thường gãy ngang 1 hoặc cả 2 xương ở cùng vị trí.
– Cơ chế gián tiếp: ngã chống tay khuỷu duỗi làm uốn bẻ gập 1 hoặc 2 xương gây nên gãy chéo, xoắn, gãy bậc thang. Hai xương thường gãy ở hai vị trí khác nhau. Xương trụ  gãy thấp, xương quay gãy cao.
– Cơ chế hỗn hợp: vừa trực tiếp vừa gián tiếp, gây ra các kiểu gãy phức tạp: gãy 2 tầng, gãy có mảnh xương rời…

* Các thể lâm sàng
– Theo vị trí: chia làm 3 thể (gãy 1/3 trên , 1/3 giữa và gãy 1/3 dưới).
– Theo tuổi:
+ Gãy xương ở người lớn.
+ Gãy xương ở trẻ em: gãy tạo hình thì xương quay bị cong không thấy đường gãy và gãy cành tươi thì xương chỉ gãy một bên vỏ xương, vỏ còn lại chỉ bị uốn cong.
+ Gãy kín hoặc gãy hở.

3 Figure3 1 1

II. Gãy chỏm quay

– Là sự phá huỷ đột ngột các cấu trúc bên trong của xương do nguyên nhân cơ học xảy ra tại chỏm quay (25 mm đầu trên xương quay)
– Gãy chỏm quay chiếm 1,5-4% trong các loại gãy xương và 20% trong tất cả gãy xương vùng khuỷu
– Cơ chế: phần lớn do lực gián tiếp. Ngã chống tay duỗi, lực truyền lên lồi cầu làm vỡ chỏm hay gây gãy chéo chỏm và cổ.

* Phân loại (Mason 1954):
– Mason I: gãy không di lệch (< 2mm)
– Mason II: gãy bờ chỏm di lệch hoặc gãy cổ di lệch (> 2mm)
– Mason III: gãy vụn chỏm hoặc gãy cổ di lệch hoàn toàn
– Mason IV: gãy chỏm kèm trật khớp khuỷu

MasonClassifica ao4k

* Đặc điểm hình ảnh
– Đường sáng mất liên tục đường bờ xương.

– Đánh giá đệm mỡ của khuỷu (Dịch khớp khuỷu):
+ Nằm ngoài bao hoạt dịch khớp khuỷu.
+ Đệm mỡ trước: nằm trước đầu dưới xương cánh tay, áp sát xương, thấy rõ trên phim nghiêng.
+ Đệm mỡ sau: nằm sau đầu dưới xương cánh tay, bình thường không thấy trên phim nghiêng.
+ Khi có tràn dịch khớp => đệm mỡ thay đổi vị trí, bị đẩy lên trên ra trước và ra sau.
+ Đệm mỡ trước bị đẩy lên trên ra trước => Dấu hiệu cánh buồm “Sail sign”

=> Case lâm sàng:

=> Case lâm sàng 1:

=> Case lâm sàng 2:

=> Case lâm sàng 3:

=> Case lâm sàng 4:

=> Case lâm sàng 5:

=> Case lâm sàng 6:

=> Case lâm sàng 7:

=> Case lâm sàng 8:

=> Case lâm sàng 9:

III. Gãy mỏm khuỷu

– Là gãy phần đầu trên của xương trụ,cùng vói mỏm vẹt tạo thành hõm Zigma lớn. Gãy mỏm khuỷu là gãy xương phạm khớp
– Gãy mỏm khuỷu là một loại gãy xương nội khớp chiếm tỉ lệ không lớn trong chấn thương, 5,65% trong tổng số các loại gãy xương nội khớp.
– Điểm cốt hóa của mỏm khuỷu xuất hiện vào 10 tuổi và dính liền vào 16 tuổi. Ở một số ít ở người lớn, đĩa sụn đầu xương mỏm khuỷu vẫn còn. Ở trên mỏm khuỷu có thể có một xương phụ: xương bánh chè của xương trụ (Patellae cubitii). Biết 2 điều này để khỏi nhầm vỡi gãy mỏm khuỷu => có thể chụp đối bên so sánh.

* Phân loại theo Schatzer
– Gãy ngang
– Gãy ngang có lún, vỡ mảnh nhỏ
– Gãychéo
– Gãy nát
– Gãy chéo xoắn
– Gãy trật

117767 1 En 10 Fig1 HTML

* Phân loại Mayo
– 1A: gãy không di lệch, không có mảnh rời.
– 1B: gãy không di lệch, gãy nhiều mảnh.
– 2A: gãy di lệch, không có mảnh rời.
– 2B: gãy di lệch, gãy nhiều mảnh.
– 3A: gãy không vững, không có mảnh rời.
– 3B: gãy không vững, gãy nhiều mảnh.

12306 2016 449 Fig2 HTML

=> Case lâm sàng:

=> Case lâm sàng 1:

IV. Gãy Monteggia

– Gãy 1/3 trên xương trụ gập góc kèm trật khớp quay trụ trên (do đứt dây chằng vòng) và trật khớp quay lồi cầu.
– Chiếm khoảng < 1% các gãy xương vùng cẳng tay, thường gặp ở lứa tuổi từ 4-10 tuổi.

* Phân loại (Bado):
– Loại I: Chỏm quay trật ra trước, xương trụ gãy gập góc ra trước, chiếm 60% trường hợp.
– Loại II: Chỏm quay trật ra sau hoặc sau ngoài, xương trụ gãy gập góc ra trước chiếm 15%.
– Loại III: Chỏm quay trật ra ngoài hoặc trước ngoài, gãy vùng hành xương ở đầu trên của xương trụ chiếm 20%.
– Loại IV: Chỏm quay trật ra trước kèm gãy thân cả hai xương quay và trụ.

Bado Classification of Monteggia

Hoặc có thể chia gãy Monteggia thành 2 thể:
– Thể ưỡn: Chỏm xương quay trật ra trước, xương trụ gãy gập góc mở ra sau (hay gặp).
– Thể gấp: Chỏm xương quay trật ra sau, xương trụ gãy gập góc mở ra trước (ít gặp).

V. Gãy Galeazzi

– Gãy 1/3 dưới thân xương quay có di lệch gập góc/di lệch chồng + Trật khớp quay trụ dưới.
– Thường do ngã chống tay cổ tay duỗi.
– Gãy Galeazzi chiếm 3-6% gãy xương chi trên và 7% gãy xương cẳng tay.

gallezi

=> Case lâm sàng:

VI. Gãy 2 x cẳng tay

– Gãy thân 2 xương cẳng tay là gãy đoạn thân xương có màng liên cốt bám, nghĩa là vào khoảng 2cm dưới mấu nhị đầu (xương quay) và trên nếp gấp cổ tay 5cm
– Gãy hai xương cẳng tay chiếm 15-20% các gãy xương ở vùng cẳng tay. Gặp ở mọi lứa tuổi. Là loại gãy xương có di lệch tương đối phức tạp, nhất là gãy 1/3 trên, nắn chỉnh hình khó khăn.

collage 20150713205522057 Xray.vn

* Phân loại:
– Nhóm A: gãy xương quay hoặc / và xương trụ với đường gãy ngang / chéo.
– Nhóm B: gãy xương quay hoặc / và xương trụ với đường gãy có mảnh hỉnh chêm.
– Nhóm C: gãy xương quay hoặc / và xương trụ với đường gãy phức tạp nát nhiều tầng.

VII. Gãy đầu dưới x quay

– Là loại gãy xương xãy ra từ mỏm trâm quay lên trên không quá 40mm.
– Gãy đầu dưới xương quay chiếm tỉ lệ gần 1 /6 của tất cả loại gãy xương được điều trị tại khoa cấp cứu. Phần lớn gãy xương ở người lớn tuổi là gãy ngoài khớp trong khi đó gãy thấu khớp ở người trẻ tuổi chiếm tỉ lệ cao hơn. Phần lớn gãy xương do loãng xương là do té ngã, trong khi đó phần lớn gãy xương ở người trẻ là do tai nạn giao thông và thể thao.

=> Case lâm sàng 1:

=> Case lâm sàng 2: Salter-Harris IV

* Gãy Pouteau-Colles
– Là gãy đầu dưới xương quay phía trên khớp quay -tụ cốt, với di lệch điển hình: Đọan ngoại vi di lệch ra sau, ra ngoài và lên trên.
– Đường gãy bao giờ cũng ở trên khớp, giữa chỗ nối thân xương với khớp. Khoảng 4cm trên mỏm trâm quay, và khoảng 2,5cm trên khớp quay – trụ.
– Hiện nay người ta mô tả 2 loại gãy:
+ Gãy cao (hay gặp: Đường gãy ở khoảng 2,5cm trên khớp quay – trụ.
+ Gãy thấp (ít gặp): Đường gãy ở khoảng 1cm trên khớp quay – trụ.
– Các trường hợp gãy hoàn toàn bao giờ cũng có di lệch rất điển hình. Đoạn ngoại vi di lệch theo 3 hướng:
+ Ra sau: đoạn ngoại vi di lệch ra sau, thường làm cho đường gãy há phía trước (trừ gãy cắm gắn).
+ Ra ngoài: do đầu dười xương quay được cố định bởi dây chằng tam giác và dây chằng quay và trụ-tụ cốt. Do đó khi đoạn ngoại vi gãy kéo mạnh ra ngoài thường làm toác khớp quay-trụ dưới và có thể kết hợp với tổn thương dây chằng tam giác, hoặc gãy mỏm trâm trụ.
+ Lên trên: đoạn ngoại vi lên trên do di lệch Cheng làm cho Mỏm trâm quay cao lên > so Mỏm trâm trụ.
– Hay gặp người già (do thưa xương), có thể gặp người lớn, trẻ em thường bong sụn tiếp hợp

Colles 4

* Gãy Goyrand-Smith
– Do ngã chống tay cổ tay gấp, loại này ít gặp hơn. Đại diện cho nhóm này là Goyrand- Smith; đoạn gãy xa di lệch lên trên, ra trước và ra ngoài

Slide12

* Gãy Barton
– Một mảnh của bờ khớp trước bị gãy di lệch lên trên, làm trật khớp cổ tay ra trước.

volar barton 3 in 1

* Gãy Chauffeau
– Gãy chéo một phần mặt khớp, bao gồm cả mỏm trâm quay.

cc52cce7bcfd8c905bcc7b5d2b6a65 jumbo

VIII. Loại gãy đặc biệt

1. Gãy cành tươi

– Xương của trẻ có tính đàn hồi gia tăng. Một lực làm gập góc (angular force) tác động lên một xương dài của một đứa bé gây nên gãy cành xanh (greenstick fracture). Một vỏ xương không đủ căng, trong khi vỏ xương đối diện gãy trong đè ép. Gãy xương này tương tự với gãy xảy ra khi chúng ta cố bẻ gãy một cành cây xanh.
– Loại gãy xương này thường xảy ra ở xương quay và xương trụ. Cần nắn những gãy xương này, và gãy xương phải hoàn toàn để đạt được sự nắn đầy đủ. Cần bất động bằng bó bột trong 6 tuần lễ.

=> Case lâm sàng 1:

=> Case lâm sàng 2:

2. Gãy bánh bơ

– Gãy bánh bơ (Torus / Buckle) loại gãy xương này điển hình được thấy ở hành xương của xương quay. Torus có nghĩa là một sưng tròn hay chỗ nhô lên. Ở trẻ em, vỏ xương và hành xương bị oằn do đè ép (buckling), trong khi vỏ xương đối diện vẫn nguyên vẹn. Vùng xương bị oằn do đè ép này tạo nên một chỗ nhô lên (torus). Bởi vì vỏ đối diện vẫn nguyên vẹn, những gãy xương này ổn định và cần đặt nẹp hay bó bột trong 4 tuần.
– Gãy bánh bơ có những dấu hiệu lâm sàng và X quang thường rất kín đáo, thường xảy ra ở trẻ em.

=> Case lâm sàng 1:

=> Case lâm sàng 2:

=> Case lâm sàng 3:

3. Gãy Salter Harris

– Gãy xương Salter-Harris là một chấn thương liên quan tới sụn tăng trưởng của xương trẻ em.
– Sụn tăng trưởng là một vùng sụn mềm ở đầu các xương dài.
– Gãy xương Salter-Harris có thể xảy ra ở bất kỳ xương dài nào, từ ngón tay, ngón chân, đến xương cánh tay và chân.
– Sự phát triển xương của trẻ chủ yếu diễn ra ở các đĩa tăng trưởng. Khi trẻ đã trưởng thành đầy đủ, những vùng này cứng lại thành xương rắn chắc.
– Các tấm sụn tăng trưởng tương đối yếu và có thể bị tổn thương do ngã, va chạm hoặc áp lực quá lớn. Thông thường những gãy xương này xảy ra ở trẻ em và thanh thiếu niên khi hoạt động thể thao.
– Gãy xương Salter-Harris lần đầu tiên được phân loại vào năm 1963 bởi các bác sĩ người Canada Robert Salter và W. Robert Harris.

884461

– Loại 1: Gãy kéo dài qua sụn tiếp hợp đầu xương, làm di lệch đầu xương => tăng bề rộng của vùng sụn tiếp hợp không cản quang.

– Loại 2: đường gãy chạy qua sụn tiếp hợp vào hành xương.

– Loại 3: đường gãy chạy từ bề mặt khớp qua sụn tiếp hợp đầu xương.

3 2
– Loại 4: đường gãy từ bề mặt khớp qua sụn tiếp hợp tới hành xương.

– Loại 5: lực tác động theo trục dọc thân xương => lún sụn tiếp hợp.

4145 DS SH5 distal radius 7M 1

Hình ảnh bệnh lý ↵

Tài liệu tham khảo

* Pediatric Distal Forearm and Wrist Injury: An Imaging Review – Jason T. Little, MD Nina B. Klionsky, MD
* Fracture of the Distal Radius: Epidemiology and Premanagement Radiographic Characterization – Jack A. Porrino
* Fracture of the distal radius: epidemiology and premanagement radiographic characterization – Jack A Porrino Jr
* Comparison of different radiography systems in an experimental study for detection of forearm fractures and evaluation of the Müller-AO and Frykman classification for distal radius fractures – Stephan Metz
* Common forearm fractures in adults – W Scott Black, Jonathan A Becker
* Ultrasound-guided diagnosis of fractures of the distal forearm in children – C Herren
* Does early radiography alter remanipulation rates in paediatric forearm fractures? – Gareth Rooke, Fred T S Phillips
* Diagnosis and guided reduction of forearm fractures in children using bedside ultrasound – Lei Chen, Yunie Kim, Christopher L Moore
* Distal radius fractures and radiographic assessment: a systematic review of measurement accuracy – Janni