Logo BSThuan.Vn

U Xương Dạng Xương | Bài giảng CĐHA

I. Đại cương

– U xương dạng xương (Osteoid osteoma) là một tổn thương lành tính ở xương, ổ khuyết xương nhỏ (nidus) bao quanh một vùng xơ cứng của xương, kích thước khoảng 1,5-2cm
– Chiếm 10% tất cả các khối u xương lành tính và chiếm 5% trong tổng số các loại u xương nguyên phát.
– Thường gặp ở tuổi thiếu niên (10-35 tuổi), tỷ lệ nam/nữ = 2-4/1
– Lâm sàng: đau nhiều về đêm, nhất là nửa đêm về sáng, giảm đau đặc hiệu bằng các thuốc thuộc nhóm Aspirin
– Vị trí:
+ Phần đầu các xương dài (xương đùi, xương chày, xương cánh tay) chiếm 73%
+ Thân đốt sống chiếm 10-14%
+ Xương bàn tay chiếm 8% và xương bàn chân chiếm 4%.

– Mô bệnh học: tổn thương bao gồm 3 phần đồng tâm, trung tâm (nidus) đại diện cho quá trình tân sinh, tiếp theo là viền sợi mạch, ngoài cùng là phản ứng xơ cứng. Các nidus tiết ra các chất prostaglandin (thông qua các enzym cyclo-oxygenase-1 và cyclo-oxygenase-2), do đó gây ra cơn đau.

– Phân loại:
+ Thể tại vỏ xương (chiếm 80%)
+ Thể dưới màng ngoài xương
+ Thể màng trong xương
+ Thể trong tủy xương

259 2018 4181 Fig9 HTML

II. Chẩn đoán x-quang

– Hình ảnh vỏ xương bình thường hoặc phản ứng dày vỏ xương khu trú không kèm phản ứng màng xương
– Trong vùng dày vỏ xương có thể thấy hình ảnh niddus: ổ khuyết xương nhỏ, hình trứng, đường kính < 20mm, có thể thấy nốt vôi hóa nhỏ ở trung tâm.
– Do mật độ vùng vỏ xương dày rất cao và ổ khuyết xương nhỏ nên hình ảnh khuyết xương (nidus) thường bị che lấp, chỉ bộc lộ rõ bằng cắt lớp vi tính
– U dạng xương có thể tiến triển thành tổ chức xương bình thường.

=> Case lâm sàng 0:

=> Case lâm sàng 1:

=> Case lâm sàng 2:

=> Case lâm sàng 3:

=> Case lâm sàng 4:

=> Case lâm sàng 5:

=> Case lâm sàng 6:

=> Case lâm sàng 7:

III. Chẩn đoán CLVT

– Hình phì đại vỏ xương khu trú, đặc xương vây quanh một ổ khuyết xương (nidus) có đường kính < 20mm, trung tâm có nốt vôi hóa.
– Vị trí nidus có thể dưới màng xương, vỏ xương hoặc trong tuỷ xương.
– Chụp cắt lớp vi tính có cản quang: U xương dạng xương cho thấy giai đoạn động mạch có giao động nhanh tăng cường và sau đó là sự thoát ra chậm của thuốc cản quang tại ổ bệnh, phù hợp với dòng chảy chậm trong giai đoạn tĩnh mạch.

=> Case lâm sàng 1:

=> Case lâm sàng 2:

=> Case lâm sàng 3:

=> Case lâm sàng 4:

=> Case lâm sàng 5:

IV. Phân biệt

* Viêm xương tủy

– Là dạng tổn thương hay phải phân biệt nhất.
– Tổn thương thường là đơn độc, vị trí ở vỏ xương, có khối apxe trung tâm và viền đặc xương xung quanh.
– Hình ảnh ổ thấu quang trong apxe thường nằm lệch bên hoặc không có. Còn ở u xương dạng xương thường ở trung tâm.
– Trong u xương dạng xương, mặt trong của nidus nhẵn, và một nốt vôi hóa tròn được nhìn thấy ở trung tâm của nidus. Trong viêm xương tuỷ, bờ trong ổ apxe không đều, tổn thương trong ổ apxe nằm lệch tâm.
– Kích thước ổ apxe thường > u xương dạng xương.

– Trong chụp CT, MRI có tiêm thuốc:
+ U xương dạng xương có nidus trung tâm ngấm thuốc rõ
+ Apxe viêm xương tuỷ ngấm thuốc viền, trung tâm không ngấm thuốc

13244 2021 978 Fig8 HTML

* U nguyên bào xương

– Tuổi: gặp ở người trẻ, nhiều nhất ở giai đoạn 10-20 tuổi, với các triệu chứng lâm sàng giống u dạng xương.
– Vị trí: thường một ổ tổn thương, nằm ở cung sau đốt sống, thân và cổ xương dài, nằm lệch tâm, trong vỏ xương.
– Đặc điểm hình ảnh:
+ Ổ khuyết xương kích thước > 20mm
+ Bờ rõ.
+ Có thể có dấu hiệu thổi vỏ, không có phản ứng màng xương.
+ Vôi hoá nhanh khi được điều trị bằng tia xạ
+ Ít có viền đặc xương xung quanh hơn u xương dạng xương

Screenshot 2022 03 03 234413

* U nguyên bào sụn

– U nguyên bào sụn còn được gọi là u Codman là tổn thương hiếm gặp, chiếm < 1% các khối u xương nguyên phát và thường xảy ra ở sụn trong giai đoạn đang hoàn tất quá trình phát triển.
– 90% gặp ở những người trẻ chưa liền sụn tăng trưởng, tuổi thường gặp 5-25 tuổi, nam giới có nguy cơ mắc phải bệnh này cao gấp đôi so với nữ giới.
– Vị trí: chủ yếu phát sinh ở vùng sụn phát triển đầu xương dài (70%) như ở đầu trên xương cánh tay, xương đùi và xương chày. 10% ở bàn tay, bàn chân.
– Hình ảnh tổn thương khuyết xương hình tròn hoặc bầu dục, kích thước 3-4cm, bờ rõ phân thuỳ, có đường viền vôi hóa mỏng (50%).
– Vị trí lệch tâm ở đầu các xương ống dài: xương cánh tay, xương đùi, xương chày.
– U phát triển xu hướng mở rộng về phía hành xương, có thể lan qua sụn tiếp hợp, lan vào sụn khớp.
– Vôi hoá lệch tâm

* Gãy xương mệt

– Gãy xương mệt xảy ra khi sức ép lên xương vượt quá khả năng tự phục hồi của xương.
– X-quang, có thể thấy dày khu trú của vỏ xương ở giai đoạn muộn, một phát hiện tương tự như u xương dạng xương.
– Vị trí thường gặp ở thân xương chi dưới và cổ xương đùi
– Dày vỏ xương trong gãy xương mệt tại vị trí đường gãy xương thường tạo ra gờ nổi rõ ở vỏ xương, dày vỏ xương phát triển về phía màng ngoài và màng trong vỏ xương. Dày vỏ xương trong u xương dạng xương phát triển theo trục dọc và ngang của tổn thương xương, không tạo ra gờ nổi rõ trên vỏ xương.

Hình ảnh bệnh lý ↵

Tài liệu tham khảo

* Bone tumor H-0 Bone tumors and tumor-like lesions in alphabethic order – Henk Jan van de Woude and Robin Smithuis
* Pediatric Bone Imaging: Diagnostic Imaging of Osteoid Osteoma – Ramesh S. Iyer
* Osteoid osteoma: multimodality imaging with focus on hybrid imaging – Ujwal Bhure
* Benign Bone Tumors: An Overview of What We Know Today – Sara De Salvo
* Conservative Treatment for Patients with Osteoid Osteoma: A Case Series – HISAKI AIBA
* Imaging of Intra-articular Osteoid Osteoma – S . D . A L L E N , A . S A I F U D D I N
* Radiologic Diagnosis of Osteoid Osteoma: From Simple to Challenging Findings – Jee Won Chai, Sung Hwan Hong
* Osteoid osteoma: the great mimicker – Bruno C. Carneiro
* Radiological Features of Osteoid Osteoma: Pictorial Review – Jahanbakhsh Hashemi
* Tumors and Tumor-Like Lesions of Bone – Eduardo Santini-Araujo
* Osteoid osteoma’s radiographic features mostly depend on location of the tumor – U. Wegner
* Intra-articular osteoid osteoma of the hip – imaging value – P. L. F. Pegado
* Follow-up imaging assessment of osteoid osteoma after a CT-guided radiofrequency ablation – Y. Teramura
* Osteoid Osteoma: What every Radiologist should know – J. Vidal González, Y. Herrero Gómez, V. Artiles, S. Fernández-Zapardiel, M. Céspedes, R. Moreno de la Presa, R. González Tovar, V. Rodriguez Laval, M. T. Fernández Taranilla; Toledo/ES
* Osteoid osteoma: from diagnosis to treatment – E. A. Fatone
* Osteoid osteoma : A pictorial review – L. F. Foo, N. Raby, M. Sambrook; Glasgow/UK
* CT-guided radiofrequency ablation as an effective treatment for osteoid osteoma – J. S. F. Pinto